Tu Tiên và Nghiệp Báo: Góc Nhìn Phật Giáo về Sự Đắc Đạo

Kênh Những lời dạy cổ xưa xin chào quý vị khán giả. Trong hành trình tìm hiểu về tâm linh và những giá trị cổ xưa, hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau khám phá một chủ đề thú vị: Liệu tu tiên có thật sự là con đường giải thoát tối thượng? Liệu những vị tiên nhân có thực sự thoát khỏi quy luật nhân quả và luân hồi? Với góc nhìn từ Phật giáo, chúng ta sẽ có một cái nhìn sâu sắc hơn về con đường tu tập và ý nghĩa thực sự của sự đắc đạo. Kính mời quý vị cùng theo dõi.

Trong đạo giáo, tu tiên được xem là một quá trình tu luyện gian khổ để đạt đến sự trường sinh bất lão, thậm chí là thành tiên. Tuy nhiên, dưới lăng kính của Phật giáo, các vị tiên cũng chỉ là một chúng sinh trong vòng luân hồi. Một vị cao tăng đã từng nói rằng, dù có đạt được sự trường sinh bất lão nhờ tu tiên, thì cũng không thể thoát khỏi quy luật sinh tử luân hồi. Điều này có nghĩa là, kể cả khi tu thành tiên, nếu hết phước báo, thì vẫn phải chịu luân hồi trong sáu nẻo.

Tuệ Tâm đại sư, khi đọc các kinh sách về cao tăng, nhận thấy rằng Lão Tử và Khổng Tử thường được xếp ở vị trí đầu tiên. Điều này khiến ngài hiểu rằng, có thể hai vị này chính là hóa thân của Bồ Tát, ẩn mình trong nhân gian để độ hóa chúng sinh. Lý do sâu xa này có lẽ rất vi tế và khó hiểu đối với người phàm. Vậy, bản chất thật sự của việc tu tiên dưới góc nhìn của Phật giáo là gì?

Câu chuyện của chúng ta hôm nay xoay quanh đạo giáo, nhưng lại không nằm ngoài phạm trù của Phật giáo. Bởi vì, Phật giáo bao trùm tất cả các tôn giáo, thậm chí cả những tôn giáo phỉ báng Phật giáo. Phật giáo giống như hư không, bao la và vô tận. Dù bạn có tin hay không tin vào Phật, thì tất cả đều nằm trong sự bao quát của Phật giáo. Vì lẽ đó, chúng ta có thể bàn luận về đạo giáo để rút ra những bài học cho việc tu hành. Phật giáo lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa, không có sự đố kỵ hay chướng ngại, luôn bình đẳng với tất cả. Đức Phật không tìm người gây phiền não và cũng không nói thị phi của người khác. Đó chính là sự vĩ đại của Phật giáo.

Lão Tử, người sáng lập đạo giáo, đã viết bộ Đạo Đức Kinh nổi tiếng. Tuy nhiên, ít ai biết rằng, kiếp trước của ông là một đệ tử của Phật, chính là tôn giả Ca Diếp. Ngài đã tu hành khổ hạnh và nguyện hóa thân thành Lão Tử để độ hóa chúng sinh. Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo, cũng là một đệ tử của Phật, hóa thân thành Hủy Nguyệt Đồng Tử. Các vị này, ở Trung Quốc, đã lần lượt xướng lên lý luận của đạo giáo và Nho giáo để phổ biến Phật pháp. Sau đó, họ đã đưa Phật giáo Đại thừa vào giáo lý của mình, khiến tam giáo hợp thành một. Điều này giải thích vì sao sau này có người đề xướng Nho, Thích, Đạo tam giáo là một nhà. Tuy nhiên, đáng tiếc là nhiều người không hiểu thấu đáo nội dung này, chỉ biết được một phần nhỏ.

Vào cuối đời nhà Tống, có một người tên Vương Triết, xuất thân từ nhà võ, ở tỉnh Sơn Tây. Ông là người trung hậu, thích bố thí, cứu khổ, giúp đỡ mọi người. Ông có tâm trắc ẩn, luôn làm hết mình vì công đức. Nhà ông có ruộng đất ngàn mẫu, nhà cửa rất nhiều, đó là do phước báo từ kiếp trước. Một ngày nọ, hai vị tiên là Chung Ly Quyền và Lã Động Tân, đi du ngoạn khắp nơi, đến Sơn Tây, thấy khí lành bốc lên từ một thôn trang. Họ biết có người thiện báo đang ở đó, bèn giả làm ăn mày đến xin ăn trước cửa nhà Vương Triết. Lúc đó, trời đang có tuyết, Vương Triết thấy hai người ăn mày càng thêm thương xót, mời vào nhà cho ở tạm. Vài ngày sau, hai người cáo từ ra đi. Vương Triết không nỡ chia lìa, đưa họ đến một cây cầu cách nhà hơn 20 dặm. Chung Ly Quyền lấy hồ lô ra, rót rượu mời Vương Triết. Ông uống cạn ly, cảm thấy mát mẻ trong người. Lã Động Tân nói rằng, tiễn khách đến ngàn dặm cũng có sự chia ly, hẹn gặp lại vào ngày 3 tháng 3 năm sau tại cây cầu này, rồi lập tức bay đi. Vương Triết về nhà, cảm thấy kỳ lạ, nghĩ rằng có lẽ họ là tiên, và mình đã bỏ lỡ cơ hội cầu đảo. Ông tự nhủ, ngày 3 tháng 3 năm sau sẽ có cơ hội gặp lại, lúc đó cầu pháp cũng chưa muộn.

READ MORE >>  Thế Giới Sau Chiến Tranh: Bài Học Từ Xung Đột và Hy Vọng Tái Thiết

Thời gian trôi qua, đến ngày 3 tháng 3, Vương Triết đến chỗ cây cầu như đã hẹn. Hai vị tiên đã chờ ở đó. Vương Triết cung kính đảnh lễ và tha thiết cầu xin được giải thoát khỏi sinh tử và tu tiên. Hai vị tiên truyền dạy cho ông cách tĩnh tọa, điều hơi thở, luyện đan. Họ truyền cho ông chánh pháp của đạo giáo. Vương Triết vô cùng hoan hỉ, lễ bái tạ ơn, hỏi danh tính của sư phụ. Một người nói là Kim Đồ, một người nói là Song Khẩu. Vương Triết biết đó là hai vị trong Bát Tiên, càng thêm vui mừng. Hai vị tiên khuyên ông tinh tấn tu hành sẽ thành tựu, rồi biến mất. Vương Triết vui mừng trở về nhà, nhưng không kể với ai. Ông ngụy trang làm ma nhập, lúc khóc lúc cười, khiến người nhà tưởng ông bị bệnh thần kinh, nhốt ông vào phòng nhỏ. Đây chính là điều ông mong muốn, để có thể bế quan tu tiên. Sau 12 năm bế quan, Vương Triết thành đạo, được gọi là Vương Trùng Dương chân nhân.

Sau khi đắc đạo, Vương Trùng Dương dùng thần thông đến huyện Phong Lai để độ đệ tử là Mã Ngọc. Ông nghĩ rằng, sư phụ độ mình bằng cách giả làm ăn mày, nên mình cũng sẽ giả làm ăn mày để tiện độ người. Hàng ngày, ông đi khất thực, nhưng mãi không thấy Mã Ngọc, vì nhân duyên chưa đến. Mã Ngọc là một phú hộ, có vợ đẹp nhưng lại chưa có con. Một ngày nọ, ông than thở vì chuyện này. Vợ ông khuyên ông nên học đạo để giải thoát sinh tử và trường sinh bất lão. Bà nói, mình đã gặp một đạo nhân hiền lành, có thể truyền thụ pháp môn cho họ, chính là ông lão ăn mày thường đến xin ăn trước cửa nhà. Mã Ngọc thấy có lý, bèn mời Vương Trùng Dương vào thư phòng để hỏi đạo. Vương Trùng Dương nói mình là người Sơn Tây. Mã Ngọc mời vợ ra chào hỏi, giới thiệu là Tôn Uyên Trinh. Hai vợ chồng xin Vương Trùng Dương thu làm đệ tử. Ông đồng ý, từ đó ở lại nhà Mã Ngọc, bắt đầu giảng kinh thuyết pháp. Mã Ngọc đem tài sản bố thí, lập đạo tràng lớn, thu hút hơn ngàn người cùng tu đạo. Điều kiện tu đạo có hai: một là pháp tu thân, hai là tài cúng dường. Đạo tràng vừa có pháp, vừa có tài, nên mọi người yên tâm tu hành, đạo nghiệp tiến bộ.

Một năm sau, Vương Trùng Dương bị bệnh, toàn thân lở loét, hôi hám. Các đệ tử nghĩ rằng sư phụ không có chân đạo hạnh, nên mới mắc bệnh. Họ bỏ đi gần hết, chỉ còn lại bảy người chăm sóc. Không lâu sau, Vương Trùng Dương khỏe lại, tiếp tục giảng kinh thuyết pháp. Bảy người đệ tử này là Mã Ngọc, Tôn Uyên Trinh, Khâu Trường Xuân, Lưu Trường Sinh, Hách Đại Thông, và Vương Ngọc Dương. Mỗi người tu một phương pháp khác nhau. Mã Ngọc và Tôn Uyên Trinh là vợ chồng, nhưng cũng ở riêng để tu đạo. Đây là phương pháp đoạn dục khử ái. Kinh Lăng Nghiêm nói, nếu tâm dục không dứt, thì tu đạo như nấu cát không bao giờ thành cơm.

READ MORE >>  Lời Dạy Cổ Xưa: Thiền Định Dưới Góc Nhìn Của Các Bậc Thánh Nhân

Một ngày nọ, Vương Trùng Dương đến phòng Tôn Uyên Trinh, nói rằng gái không chồng là oán nữ, trai không vợ là khoáng phu, âm dương phải phối hợp mới là lẽ chính. Tôn Uyên Trinh hiểu lầm, nổi giận bỏ đi. Đến cửa phòng Mã Ngọc, thì thấy Mã Ngọc đang cười nói mình vừa trò chuyện với sư phụ, và sư phụ nói có người tìm mình. Mã Ngọc an ủi Tôn Uyên Trinh, nói đó là tâm từ của sư phụ, khảo nghiệm đạo nghiệp của cô. Oán nữ, khoáng phu tức là nói rõ đạo lý vũ trụ, vạn vật phải có âm dương. Cô đã hiểu lầm ý tốt của sư phụ, nên đến sám hối. Tôn Uyên Trinh quỳ trước Vương Trùng Dương, xin tha thứ. Vương Trùng Dương nói, tu đạo phải có thắng xứ mới chứng quả. Hiện tại, vùng Lạc Dương có Trần Nhân, nhưng cô không thể đến đó tu hành, vì cô quá xinh đẹp, dễ bị người làm chướng ngại. Tôn Uyên Trinh không nói gì, về phòng hủy hoại sắc đẹp. Ba ngày sau, cô ta trở thành một phụ nữ xấu xí, mặt đầy sẹo. Cô đến gặp Vương Trùng Dương, ông cười lớn nói, cô hủy hoại nhan sắc thì tuyệt đối không có vấn đề gì. Cô hạnh phúc đến Lạc Dương tu hành, 20 năm sau chứng quả tiên nhân.

Tôn Uyên Trinh đi rồi, không lâu sau Vương Trùng Dương qua đời. Sáu đệ tử đem di thể về Sơn Tây mai táng, sau đó ai nấy tu hành và đều chứng quả. Hách Đại Thông đến Hoa Sơn tu hành. Ông ta đục 72 cái động trên núi, nhưng đều bị người khác hóa duyên. Cuối cùng, ông ta đến đỉnh núi Hoa Sơn tu hành, và chứng đạo quả. Lưu Trường Sinh thì tu hành ở chỗ đông người, suốt ngày ở trong đám kỹ nữ. Mũ của ông ta cắm đầy hoa, nên người ta gọi ông là Cám Hoa Lão Tổ. Một hôm, các sư huynh đệ đến độ ông ta. Lưu Trường Sinh dùng tay làm cho nước sôi lên để pha trà mời mọi người. Các sư huynh đệ biết đạo nghiệp của ông đã thành tựu, bèn cáo từ ra đi. Khâu Trường Xuân là người tu tiên trẻ nhất, được Vương Trùng Dương yêu thương đặc biệt, nhưng cũng thường bị thử thách. Một ngày nọ, Vương Trùng Dương lên cơn sốt, sai đệ tử mua năm cân thịt treo trong phòng, nhưng không ăn. Thịt thối rữa, bốc mùi khó chịu. Cuối cùng, Vương Trùng Dương nói muốn mời mọi người ăn thịt sống. Chỉ có Khâu Trường Xuân dám ăn, càng ăn càng thấy thơm ngon. Vương Trùng Dương nói, Trường Xuân không được tham lam, còn một nửa để cho ta. Khâu Trường Xuân tuổi trẻ khỏe mạnh, hành Bồ Tát đạo, chuyên làm việc lợi ích cho người. Ông thường cõng người qua sông không lấy tiền. Một ngày nọ, có một người biết xem tướng nói ông có tướng chết đói. Khâu Trường Xuân buồn bã, không muốn tu hành nữa, bèn đến bên bờ sông tìm đá để chết đói. Lúc sắp chết, nước sông dâng lên, cuốn theo một quả đào trôi vào miệng ông ta. Nhờ đó, tinh thần ông lập tức khôi phục lại. Ông bèn chế tạo phòng sắt treo cổ lên cây. Đến khi sắp chết, thì có người hái thuốc giải cứu, khuyên ông chuyên tâm tu hành sẽ không chết. Khâu Trường Xuân bèn tu khổ hạnh. Một ngày nọ, trời đổ tuyết, ông ta chui vào đống phân ngựa để trú. Ông làm một bài kệ: “Thân nương đống phân, đầu đội bầu, gặp được ông trời rơi lông ngỗng”. Có người qua đường ném ngói vào chỗ bốc khói, trúng vào cái bầu của ông ta. Ông ta lại làm tiếp: “Một nhà ăn no, ngàn nhà oán, miếng ngói làm vỡ tàn quả bầu”. Ông lập tức chứng đạo. Sau này, Khâu Trường Xuân rất nổi tiếng trong đạo giáo.

Những vị đã tu đắc đạo thành tiên và độ hóa chúng sinh, có đồng nghĩa với một vị Bồ Tát trong Phật giáo không? Bồ Tát là những nhân vật phổ biến trong văn học và nghệ thuật Phật giáo. Bồ Tát hóa thân thành nhiều hình thức để cứu giúp những người gặp hoạn nạn. Bồ Tát là người giác ngộ nỗi khổ của chúng sinh, đồng cảm và phát nguyện cứu độ chúng sinh. Vì vậy, người có tâm thương người, bố thí, cứu giúp người trong cơn hoạn nạn, được gọi là người có tâm Bồ Tát.

READ MORE >>  Bí Ẩn Ngôi Chùa Treo Huyền Không Tự: Thách Thức Thời Gian 1400 Năm

Bồ Tát không phải là thần thổ địa, mà là người tu hành theo Phật pháp, đã chứng quả. Tuy nhiên, Bồ Tát vẫn còn một cấp bậc dưới Phật, vì còn muốn giác ngộ cho chúng sinh. Bồ Tát giữ chức năng cứu độ mọi loài trong ba cõi. Theo giáo lý Đại thừa, Bồ Tát là hành giả sau khi hành trì ba la mật đa đã chứng Phật quả, nhưng không nhập Niết bàn khi chúng sinh vẫn chưa giác ngộ. Bồ Tát còn lập lời chú nguyện, đi theo con đường chính đẳng chính giác. Tất cả chúng sinh đều có khả năng đắc quả thành Phật, vì đạo lý của Phật không phải là đặc ân cho một hạng người nào.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, một vị tu luyện theo đạo giáo đắc đạo thành tiên cũng là một vị Bồ Tát trong Phật giáo. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh có câu: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”. Nghĩa là Phật pháp ở thế gian, không lìa thế gian mà tìm giác ngộ. Vì lìa thế gian mà tìm giác ngộ, cũng như tìm lông rùa sừng thỏ, không thể nào có được.

Bồ Tát có đại nguyện là đại hạnh, chúng sinh thì vô lượng vô biên, Bồ Tát thể nguyện độ hết không bỏ sót một ai. Bồ Tát vừa độ hữu tình chúng sinh bên ngoài, vừa độ chúng sinh bên trong, tức là tham sân si. Bồ Tát làm cho tất cả đều vào cảnh Niết Bàn tịch tịnh. Nếu chưa được như vậy, Bồ Tát vẫn còn mãi độ sinh, không dừng nghỉ. Phiền não của chúng sinh cũng vô tận, nên Bồ Tát nguyện đoạn diệt hết phiền não trong tâm chúng sinh và của chính mình. Vì chúng sinh vô biên, phiền não vô tận, nên Bồ Tát phải học vô lượng pháp môn. Để đạt đến cứu cánh viên mãn, Bồ Tát phải phát nguyện phát đạo vô thượng thệ nguyện hành. Trong quá trình tu tập, Bồ Tát thường thực hành lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ. Bồ Tát thực hành tứ nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, để cảm hóa và đưa chúng sinh về Chánh Đạo.

Vì công việc độ sinh, Bồ Tát không tự lao nhọc. Phật tử quyết đi bình an, vai ném xong gánh nặng hồng trần. Dù cho vạn khổ, thiên tân, bước chân hành giả không ngừng lại. Bồ Tát với từ bi hỷ xả, phát nguyện đi vào cuộc đời để độ chúng sinh. Gian lao khổ nhọc chẳng quản, miễn sao độ được người. Tất cả chúng ta đều có thể trở thành Bồ Tát, đi vào đời để độ sinh. Chúng ta có thể dùng nhiều phương tiện đi vào cuộc sống, vừa tu tập, vừa giúp bao nhiêu chúng hữu quay về bờ giác. Vì chúng sinh khổ, nên Bồ Tát tình nguyện dẫn thân hóa độ, tùy hỷ hy sinh lợi ích cá nhân để đem lại lợi ích tha nhân.

Tóm lại, dù là tu tiên hay tu Phật, mục đích cuối cùng cũng là giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, đạt đến giác ngộ. Dù con đường có khác nhau, nhưng đích đến thì tương đồng. Quan trọng nhất vẫn là sự tinh tấn tu hành, tâm từ bi, và không ngừng học hỏi để hoàn thiện bản thân. Kênh Những lời dạy cổ xưa hy vọng video này đã mang đến cho quý vị những thông tin hữu ích và ý nghĩa. Xin cảm ơn và hẹn gặp lại trong những video tiếp theo.

Leave a Reply