Tây Phương Cực Lạc: Sự Thật Hay Huyền Thoại? – Giải Mã Từ Những Lời Dạy Cổ Xưa

Chào mừng quý vị đến với chuyên mục “Những lời dạy cổ xưa”, nơi chúng ta cùng nhau khám phá những triết lý, đạo lý và những lời dạy sâu sắc từ ngàn xưa. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về một chủ đề vô cùng thú vị và cũng đầy bí ẩn: Tây Phương Cực Lạc. Liệu đây có phải là một nơi có thật, hay chỉ là một huyền thoại? Hãy cùng nhau khám phá nhé.

Trong truyền thuyết, thiên đường luôn được miêu tả là một nơi an lạc, không có bất kỳ rắc rối nào, nơi mà mọi sinh vật đều tận hưởng hạnh phúc vô tận. Tuy nhiên, theo Phật giáo, thiên đường hay cõi trời vẫn chưa phải là nơi tốt nhất, bởi người trời cũng chỉ là chúng sinh và vẫn còn trong vòng luân hồi sinh tử. Có một nơi khác, tốt hơn cả thiên đường, đó chính là vương quốc của Phật A Di Đà, được Phật tử gọi là Tây Phương Cực Lạc. Vậy, nguồn gốc của ý niệm về Tây Phương Cực Lạc là gì? Tại sao lại có niềm tin rằng có một nơi như vậy? Và có bằng chứng nào để thuyết phục chúng ta rằng Tây Phương Cực Lạc là có thật?

Thực tế, ban đầu, không ít người hoài nghi về sự tồn tại của Tây Phương Cực Lạc. Nhưng sau khi tìm hiểu sâu hơn về Phật pháp, đặc biệt là giáo lý Tịnh Độ, quan điểm về Niết Bàn và Tây Phương Cực Lạc có thể thay đổi. Những bí ẩn này sẽ được hé lộ trong bài viết hôm nay.

Tây Phương Cực Lạc gắn liền và không thể tách rời với Pháp môn Tịnh Độ. Vậy, Tịnh Độ là gì? Nếu như Thiền tông chú trọng vào thiền định để khai mở trí tuệ, trực nhận bản chất của thực tại, hay Mật tông sử dụng các nghi thức bí truyền và thần chú để đạt giác ngộ nhanh chóng, thì Tịnh Độ tông hướng đến việc niệm danh hiệu Phật A Di Đà để cầu vãng sinh về Tây Phương Cực Lạc. Đây được xem là pháp môn tu tập dễ dàng, phù hợp với mọi căn cơ, hoàn cảnh và khả năng của mỗi người. Tuy nhiên, cũng có quan điểm trái chiều cho rằng Tịnh Độ là pháp môn yếm thế, lười biếng, dành cho người không dám đối mặt với khổ đau. Thực tế, những người có suy nghĩ như vậy có lẽ chưa thấu hiểu được nguồn gốc của đau khổ và chưa biết được sau khi mất đi thân này, chúng ta sẽ đi về đâu.

Phật A Di ĐàPhật A Di Đà

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa từng dạy rằng, ngày nay người ta dễ tin vào ma quỷ nhưng lại không tin Phật hiện diện, đó là một điều phi lý. Nếu ma quỷ có thì chắc chắn Phật cũng có. Tại sao lại bài bác cõi Tịnh Độ khi chưa hiểu rõ về nó? Mỗi pháp môn tu tập đều có công dụng và hiệu lực khác nhau, tùy thuộc vào căn cơ của mỗi người. Nếu không tìm ra pháp môn phù hợp, việc tu tập sẽ không mang lại kết quả. Cũng như người đau đầu cần uống thuốc đau đầu chứ không phải thuốc đau bụng. Mỗi pháp môn như tay phải tay trái, không thể chê bai pháp môn này hay pháp môn khác. Giáo pháp của Đức Phật là do bi nguyện của chư Phật, vì vậy, nếu chúng ta phân biệt, chê bai, đó chính là hủy báng lòng từ bi của Đức Phật.

Trong pháp môn Tịnh Độ, các hành giả chú trọng vào sự thanh tịnh của vạn pháp, thanh tịnh của tự tính Phật. Vì vậy, họ niệm Phật Tam muội, niệm Phật nhất tâm và quán tưởng cảnh giới Tịnh Độ để tâm thanh tịnh, cầu xin vãng sinh Tịnh Độ để tiếp tục con đường tâm linh, thành tựu giác ngộ. Giáo sư Vương Đức Phong, giáo sư triết học tại đại học Phúc Đán ở Thượng Hải, chia sẻ rằng ông tụng niệm Nam Mô A Di Đà Phật hàng nghìn lần mỗi ngày để được vãng sinh về Tây Phương Cực Lạc. Có lẽ, bạn sẽ nghĩ rằng phải mất vài thập kỷ để đạt được điều này. Tuy nhiên, Tịnh Độ tông dạy rằng, chỉ cần bạn thành tâm niệm Nam Mô A Di Đà Phật, khi qua đời, Phật sẽ đến và dẫn bạn về Tây Phương Cực Lạc, thoát khỏi lục đạo luân hồi, rời xa thế giới đầy phiền não.

Nhiều người thắc mắc rằng, liệu có đơn giản như vậy không? Chỉ cần niệm Nam Mô A Di Đà Phật là có thể đến Tây Phương Cực Lạc sao? Có phải Tịnh Độ tông là một sự lừa gạt? Thực tế, không phải Tịnh Độ tông khoe khoang. Theo giáo sư Vương, nhiều người chưa thật sự hiểu rõ sức mạnh của câu Nam Mô A Di Đà Phật.

Nam Mô A Di Đà Phật là câu niệm phổ biến nhất trong giới Phật tử. Trong câu niệm này có sáu ý nghĩa quan trọng:

  1. Nam Mô: Kính lễ, quy y, phụng thờ, biểu thị sự tôn kính và tôn thờ với lòng thành kính.
  2. A: Vô, không, đại diện cho sự vô ngã, vô dục, không điều kiện, tức là trạng thái trước khi giác ngộ.
  3. Di Đà: Vô lượng, sự vô biên, không có giới hạn.
  4. Phật: Người giác ngộ, đã thức tỉnh hoàn toàn và có khả năng giúp đỡ chúng sinh thoát khỏi khổ đau.
  5. Cứu ngã độ ngã: Ý nghĩa sự giúp đỡ, cứu khổ và giải thoát con người khỏi vòng luân hồi và đau khổ.
  6. Quy mạng: Liên quan đến vận mệnh, số phận của con người và niềm tin vào sự ảnh hưởng của đạo pháp trong cuộc sống
READ MORE >>  Maitreya: Vị Phật Tương Lai Của Phật Giáo và Hành Trình Tâm Linh

Như vậy, câu Nam Mô A Di Đà Phật có thể hiểu là kính lễ đấng giác ngộ vô lượng hoặc quay về nương tựa đấng giác ngộ vô lượng. Kinh Thập Lục Quán dạy rằng, chúng sinh nào niệm một lần danh hiệu của Phật A Di Đà sẽ tiêu được tám muôn ức kiếp tội nặng. Kinh sách cũng cho biết Phật A Di Đà từng phát nguyện, chúng sinh nào nhất tâm niệm danh hiệu ngài sẽ được ngài tiếp dẫn vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Đức Phật A Di Đà là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa. Tên của ngài có nghĩa là vô lượng thọ, vô lượng quang. Theo Kinh Đại A Di Đà, thời rất xa xưa, có một vị quốc vương tên Kiều Thi Ca, sau khi nghe một vị Phật thuyết pháp, liền bỏ ngôi xuất gia tu hành, lấy pháp hiệu là Pháp Tạng. Ông phát ra 48 lời nguyện cứu độ chúng sinh, trong đó có đại nguyện rằng sau khi tu thành Phật sẽ tịnh hóa một thế giới và biến nó thành một vương quốc thanh tịnh và đẹp đẽ nhất, chúng sinh nào hướng niệm đến ngài sẽ được tiếp dẫn về vãng sinh ở đó. Sau này, ngài hoàn thành đại nguyện và thành Phật A Di Đà. Thế giới Tịnh hóa của ngài được Phật tử hình dung là cõi Tây Phương Cực Lạc.

Tượng Phật A Di Đà trong chùaTượng Phật A Di Đà trong chùa

Trong các ngôi chùa, bạn có thể nhận ra tượng Phật A Di Đà qua các đặc điểm sau: trên đầu có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, khoác trên người áo cà sa màu đỏ. Phật A Di Đà có thể ở tư thế đứng, tay phải đưa ngang vai chỉ lên, tay trái đưa ngang bụng chỉ xuống, hai lòng bàn tay hướng về phía trước. Trong mỗi tay, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau làm thành hình vòng tròn. Theo sử sách, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc giáo chủ cõi Ta Bà, ngài đã sáng lập ra Phật giáo ở cõi giới này, nơi con người đang sinh sống. Ngài là vị Phật lịch sử chứ không phải là một vị Phật huyền thoại. Còn Phật A Di Đà là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa, có nghĩa là thọ mệnh vô lượng và ánh sáng vô lượng. Đức Phật A Di Đà là giáo chủ cõi Cực Lạc an vui ở Tây Phương. Trong cuộc đời hoằng đạo của mình, Đức Phật Thích Ca đã giới thiệu các tín đồ về Đức Phật A Di Đà và cõi nước của Ngài.

Đức Phật Thích Ca sau khi chứng thánh quả, Ngài có khả năng vận dụng trí tuệ thần thông thấy biết sự vận hành của tất cả sự vật hiện tượng trong vũ trụ. Nhờ khả năng đặc biệt này, Ngài thấy rõ quá trình tu hành của Đức Phật A Di Đà qua nhiều kiếp, thấy rõ môi trường sống và đời sống sinh hoạt của chúng sinh ở Tây Phương Cực Lạc. Như vậy, A Di Đà là vị Phật được Đức Phật Thích Ca giới thiệu cho chúng ta. Theo lời dạy của Đức Phật Thích Ca, nếu muốn sau khi chết được tái sinh ở cõi Tây Phương Cực Lạc, trong quá trình sống, chúng ta nên hướng về điều thiện, làm điều thiện, siêng năng niệm thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.

Sau khi tái sinh đến cõi này, chúng ta tiếp tục tu hành theo sự hướng dẫn của Phật A Di Đà cho đến khi chứng đắc thánh quả giải thoát. Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật A Di Đà phát nguyện tiếp dẫn những chúng sinh tinh tấn chuyên trì danh hiệu của ngài trong cuộc sống vãng sinh nước Cực Lạc. Cực Lạc là thế giới cực kỳ hạnh phúc, trong đó, mọi chúng sinh không còn quá kinh sự khổ não và chỉ hưởng trọn vẹn sự an vui. Tuy nhiên, mục tiêu của người cầu vãng sinh Cực Lạc không phải để hưởng sự an vui đó, mà là để được giác ngộ trọn vẹn hay thành Phật. Cảnh giới Cực Lạc chỉ là môi trường, phương tiện tối thắng giúp cho mọi người được vãng sinh, không còn thối chuyển trên con đường giác ngộ.

Trong kinh có mô tả thế giới Cực Lạc như sau: Đất được làm bằng vàng dòng, tất cả mọi nơi được trang hoàng bằng bảy lớp lan can báu, bảy tầng lớp lưới báu và bảy hàng cây báu. Có vô lượng ao hồ được làm bằng những chất liệu quý giá như vàng, bạc, lưu ly, pha lê, sa cừ. Nước trong ao hồ tinh khiết, thơm tho. Trong mỗi ao hồ đều có hoa sen tỏa hương sắc vi diệu và rực rỡ. Bờ trời luôn luôn có hoa Mạn Đà La rơi xuống, ngày đêm sáu thời thường có nhạc trời hòa tấu. Trong không gian luôn luôn có các âm thanh hòa nhã từ các giống chim xinh đẹp như bạch hạc, khổng tước, anh võ, xá lợi, do Phật A Di Đà hóa thân diễn nói các pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần và bát thánh đạo.

READ MORE >>  Tại Sao Đức Phật Phủ Nhận Sự Tồn Tại của Linh Hồn và Bản Ngã? Vậy Cái Gì Luân Hồi?

Ngoài môi trường sống như đã mô tả ở trên, phần chính yếu tạo thành thế giới Cực Lạc là sự hiện diện của Phật A Di Đà, vị giáo chủ, cùng vô lượng thánh chúng và dân chúng. Đức Phật A Di Đà có hào quang chiếu khắp mười phương và thọ mạng vô biên. Ánh sáng vô lượng biểu tượng cho trí tuệ rộng lớn, thọ mạng vô lượng biểu tượng cho lòng từ bi. Thánh chúng là những vị được sự giáo hóa và nhiếp thọ của Phật A Di Đà, bao gồm các vị Bồ Tát và những vị đã chứng một trong bốn quả thánh. Dân chúng là những người đang trên tiến trình tu tập, được sự giáo hóa và hướng dẫn của Phật A Di Đà và chư vị Bồ Tát. Dựa trên 48 nguyện của Phật A Di Đà, mỗi người dân ở cảnh giới Cực Lạc đều có 32 tướng tốt, thân thể cường tráng không bệnh tật, thọ mạng vô lượng, không còn phải lo lắng về đời sống vật chất, và quan trọng nhất là tâm trí của mỗi người đều hướng về mục tiêu đạt được giác ngộ.

Tóm lại, thế giới Cực Lạc là phương tiện tối thắng giúp cho hành giả không còn thối chuyển trên con đường giác ngộ. Phương tiện tối thắng đó là môi trường tốt đẹp, kinh tế đầy đủ, thân thể khỏe mạnh, có trí tuệ và được thân cận học hỏi, thực tập với các vị thánh. Bất cứ ai với tâm trí nỗ lực hướng về một mục tiêu, được sống trong môi trường tốt đẹp, có sức khỏe, điều kiện kinh tế ổn định, cùng với sự khích lệ của bạn hiền, người đó không sớm thì muộn sẽ đạt được mục tiêu như đã đề ra.

Vậy, ai đã chứng minh được thế giới Cực Lạc là có thật? Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca và mười phương chư Phật đã nhiều lần nhắc nhở thính chúng và tất cả chúng sinh nên tin có thế giới Cực Lạc. Để minh chứng có thế giới Cực Lạc, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của chữ tín. Chữ tín trong Phật giáo là tin Phật, tin Pháp và tin Tăng. Để xua tan sự hoài nghi và thiết lập niềm tin vững trãi trong việc tu tập, Đức Phật cho phép các vị Tỳ Kheo nghi vấn và tìm hiểu một cách cẩn thận về sự giác ngộ trọn vẹn của ngài. Sau đó, Đức Phật khuyên các vị Tỳ Kheo nên an trú niềm tin như sau: “Tôi đặt niềm tin ở đấng đạo sư, ngài là bậc đã giác ngộ trọn vẹn, giáo pháp được ngài khéo thuyết giảng và chư tăng là những vị đang thực tập hạnh giải thoát”. Đức Phật còn nhấn mạnh rằng, niềm tin này phải dựa trên nhận thức và lý trí.

Niềm tin vào thế giới Cực Lạc dựa trên căn bản tin Pháp, tức là tin vào lời dạy của Phật, tin vào giáo lý nhân quả, nghiệp báo, duyên sinh, vô thường, khổ và vô ngã. Hay nói một cách khác, chúng ta tin vào giáo lý Tứ Đế. Dựa trên giáo lý nhân quả và nghiệp báo, chúng ta biết được có thế giới Cực Lạc. Luật nhân quả là luật phổ biến, tác động trong nhiều giới, cả trong lĩnh vực đạo đức con người. Nếu chúng ta tạo nghiệp ác, năng lực của nghiệp ác sẽ dẫn dắt chúng ta vào thế giới ác. Nếu chúng ta tạo nhân cực thiện, thế giới chúng ta đến là thế giới cực lạc. Nhân cực thiện ở đây tức là tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, cùng với hoạt động của thân và khẩu dựa trên căn bản lòng từ bi, phù hợp với bản chất của Phật A Di Đà.

Như vậy, chúng ta tin có thế giới Cực Lạc dựa trên luật nhân quả và nghiệp báo. Luật nhân quả, nghiệp báo là quy luật phổ biến mà tất cả chúng ta đều có thể nhận thức và kinh nghiệm được trong mỗi đời sống. Đây chính là ý nghĩa chữ tín dựa trên nhận thức và lý trí.

Một câu hỏi quan trọng được đặt ra, đó là nếu có thế giới Cực Lạc dựa trên niềm tin nhân quả và nghiệp báo rõ ràng như vậy, tại sao ở phần cuối trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca lại nói rằng đây là kinh pháp khó tin? Chữ khó tin ở đây phải được hiểu là không sống hay không thực tập. Mặc dù chúng ta hiểu lý nhân quả, nghiệp báo bằng óc, nhưng chúng ta lại không chịu sống hay thực tập nó bằng tim. Những gì chúng ta biết nhưng chúng ta không thích sống với sự hiểu biết đó, thì điều đó gọi là khó tin. Phần lớn chúng ta thích tin và sống với những gì mà chúng ta cho là sẽ mang lại hạnh phúc vĩnh cửu, như tiền bạc, danh vọng, tiện nghi vật chất. Trong thực tế, những thứ như vậy là vô thường và không thể mang lại hạnh phúc vĩnh cửu cho con người.

Một điều khác quan trọng cần phải được nêu lên ở đây là phần đông Phật tử tu pháp môn niệm Phật đã dựa vào một số lý luận và kinh nghiệm cá nhân để tin có sự hiện hữu của thế giới Cực Lạc. Những lý luận và kinh nghiệm cá nhân này cần phải được giải thích và bổ túc qua ánh sáng giáo lý nhân quả và nghiệp báo. Một ví dụ kinh điển là câu chuyện của Sư Khoan Tịnh. Vào ngày 25 tháng 10 âm lịch năm 1967, chùa Mạch Tả Nham ở tỉnh Phúc Kiến đột nhiên náo loạn, bởi vì sư trụ trì của họ, Pháp Sư Khoan Tịnh, đang ngồi thiền trong tự viện thì đột nhiên biến mất. Các tăng nhân và cư sĩ toàn chùa đã tìm kiếm khắp nơi nhưng không thấy. Cuối cùng, mọi người đều nghĩ rằng Pháp Sư Khoan Tịnh đã vãng sinh và từ bỏ việc tìm kiếm.

READ MORE >>  Tháp Babel: Tham Vọng Chạm Tới Trời Xanh và Bài Học Vượt Thời Gian

Mãi 68 năm sau, Pháp Sư Khoan Tịnh đột nhiên xuất hiện trở lại trước mặt mọi người. Theo pháp sư tự mô tả, lúc đó ông đang ở trong động Di Lặc, núi Cửu Tiên, huyện Đức Hóa, tỉnh Phúc Kiến và chưa từng rời đi nửa bước. Kỳ thực, mọi người đã đến động Di Lặc để tìm kiếm nhưng không thấy ông. Pháp sư Khoan Tịnh đã làm gì trong 68 năm qua? Pháp sư nói rằng nguyên thần của ông đã may mắn được du lịch đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Ông đã trải qua những gì, chúng ta sẽ khám phá ở video sau. Qua câu chuyện của Pháp sư Khoan Tịnh, chúng ta có cơ sở để tin vào sự tồn tại của Tây Phương Cực Lạc. Ngài đã niệm danh hiệu của Phật A Di Đà trong cả cuộc đời của mình, vì vậy, đã có cơ duyên được đến đó tu tập và quay lại cõi Ta Bà truyền bá Phật pháp.

Theo kinh A Di Đà, để được vãng sinh vào thế giới Cực Lạc, ngoài việc thiết lập lòng tin vào thế giới Cực Lạc và những phương tiện tối thắng của nó, hành giả phải phát nguyện và thực hành niệm Phật. Phát nguyện ở đây tức là nguyện vãng sinh về cõi Cực Lạc. Đây là điều hết sức quan trọng mà trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca và chư Phật mười phương đã nhiều lần khuyên chúng sinh phải thực hiện. Phát nguyện vãng sinh Cực Lạc tức là xác định điểm đến và lý tưởng của mình. Điểm đến là thế giới Cực Lạc, và mục tiêu là thành Phật hay đạt được sự giác ngộ trọn vẹn. Nếu có người niệm Phật A Di Đà mà không phát nguyện vãng sinh Cực Lạc, mặc dù có phước đức lớn do niệm Phật, người đó sẽ không được vãng sinh cõi Cực Lạc. Điều này cũng giống như một người đang làm một công việc mà không biết mình làm công việc này để làm gì, hay một người đang đi trên con đường mà không biết mình sẽ đi về đâu.

Song song với sự thiết lập niềm tin và phát nguyện vãng sinh, hành giả phải thực hành niệm Phật A Di Đà. Niệm nghĩa là chú tâm theo dõi và ghi nhận. Hành giả chú tâm theo dõi và ghi nhận bằng cách niệm to, niệm nhỏ, niệm thầm hoặc niệm trong tâm danh hiệu Phật A Di Đà. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca dạy rằng: “Nếu có người con trai lành hoặc người con gái lành, muốn sinh về cõi Cực Lạc, thì người ấy phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà với một lòng không tạp loạn, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, hoặc bảy ngày. Người ấy đến khi lâm chung sẽ được thấy Phật A Di Đà và các vị thánh chúng hiện ra trước mắt. Trong giờ phút ấy, tâm của người ấy được an trú trong định, không có điên đảo và tán loạn. Do đó, người ấy sẽ được vãng sinh ngay về nước Cực Lạc”.

Điều quan trọng trong sự thực hành niệm Phật A Di Đà để được vãng sinh đòi hỏi hành giả phải nhất tâm. Để có được kết quả nhất tâm, hành giả phải tinh tấn nỗ lực niệm Phật và xem niệm Phật như là một sự nghiệp chính trong đời sống. Nói cách khác, tâm của hành giả phải thường niệm A Di Đà và thể hiện tâm niệm này qua hành động và lời nói, bằng cách ăn chay, bố thí và tinh tấn tu tập.

Thực tế, trong đời sống rất hiếm có người suốt đời không niệm Phật mà có thể nhất tâm niệm Phật trong một ngày hoặc hai ngày trước khi lâm chung. Do xem niệm Phật A Di Đà như là sự nghiệp chính của đời sống, tâm của hành giả thấm đẫm với bản thể của A Di Đà, tức là từ bi và trí tuệ. Kết quả tất yếu là tâm này sẽ dẫn hành giả vãng sinh Cực Lạc sau khi lâm chung.

Tóm lại, con đường đến Tây Phương Cực Lạc theo lời dạy của Đức Phật không đòi hỏi sự tu hành phức tạp hay khổ hạnh khắc nghiệt, mà chỉ cần lòng thành kính và niềm tin chân thành vào Phật A Di Đà. Dù bạn niệm Phật nhiều hay ít, điều quan trọng là sự chân thành từ tâm. Cực Lạc là nơi an lạc tuyệt đối, nơi không có khổ đau, và bất kỳ ai với lòng tin tưởng vào Phật đều có thể đạt đến cảnh giới này. Hành trình đến Cực Lạc chính là hành trình tìm về sự bình an và hạnh phúc viên mãn.

Chúc các bạn thành công trên con đường tu tập của mình.

Leave a Reply