Niết Bàn: Giải Thoát Hay Thiên Đường?

Kênh Những lời dạy cổ xưa xin chào quý vị. Mục đích của cuộc sống là gì, giá trị đích thực của mỗi người nằm ở đâu, và điều gì mới thực sự mang lại an lạc, hạnh phúc? Đây là những câu hỏi mà nhiều người trong chúng ta vẫn đang tìm kiếm câu trả lời. Bản thân mỗi người đều có những lúc tự hỏi về ý nghĩa cuộc đời, cứ mãi loay hoay với cơm áo gạo tiền rồi cuối cùng cũng phải đối mặt với quy luật sinh, lão, bệnh, tử. Và có lẽ, khái niệm Niết bàn là một trong những định nghĩa có thể giúp chúng ta khai mở những trăn trở này. Hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về Niết bàn để giải đáp những câu hỏi vô định trong cuộc đời.

Một lần, vua Milinda đã hỏi đại đức Na Tiên rằng: “Thưa đại đức, Niết bàn có sắc tướng không?” Đại đức Na Tiên trả lời: “Không, Niết bàn không có sắc tướng, không phải là sự kết hợp của Tứ Đại. Nó không có một diện tích, một cảnh, một cõi, một xứ, một nơi chốn cụ thể nào cả. Nó cũng không có bộ phận hay chi tiết gì.” Nhà vua lại hỏi: “Vậy có thể nào ước lượng hay đo đếm được Niết bàn không?” Đại đức trả lời: “Không thể.” Nhà vua vẫn chưa hiểu: “Vậy Niết bàn phải có nhân gì chứ? Không nhân thì sao có thể tồn tại?” Đại đức Na Tiên khẳng định: “Niết bàn không có nhân, không có duyên, không có cách thức hay phương pháp nào để chứng thực hay diễn đạt.”

Vua Milinda tiếp tục thắc mắc: “Vậy không có cách nào để mọi người dễ dàng lĩnh hội Niết bàn sao?” Đại đức Na Tiên đáp: “Có thể dùng ví dụ cụ thể để khơi mở cho thấy bóng dáng của Niết bàn.” Đại đức kể về việc nhà vua đã từng thấy biển lớn và xác định rằng biển lớn là có thật. Tuy nhiên, khi được hỏi về độ rộng, dài, sâu của biển hay số lượng cá trong đó, không ai có thể trả lời chính xác. Biển là một thứ cụ thể mà ta có thể thấy bằng mắt thường, nhưng Niết bàn là một pháp siêu thế, vượt ngoài mọi ước lượng và nhân duyên.

Trong kinh Vua Milinda vấn đạo, đại đức Nagasena cũng nói về Niết Bàn như sau: “Không có nơi nào nhìn về hướng tây, hướng nam, hướng đông, hướng bắc, phía trên, phía dưới hay phía ngoài mà có thể nói rằng đó là Niết Bàn.” Tuy nhiên, Niết bàn thật sự có và người nào có cuộc sống chân chánh, giới hạnh trang nghiêm, chú tâm minh sát, dù ở đâu cũng có thể thành tựu đạo quả Niết Bàn. Cũng như lửa không được tích trữ ở một nơi đặc biệt nào, nhưng khi đủ điều kiện thì lửa sẽ phát sinh, Niết bàn cũng vậy, khi đạo đủ duyên đầy thì quả Niết Bàn sẽ thành tựu.

Vào thời đức Phật còn tại thế, có một số Sa môn Bà la môn cho rằng có năm loại Niết Bàn tối thượng. Một số cho rằng đó là sự tận hưởng đầy đủ năm thứ dục lạc, số khác lại cho rằng đó là các trạng thái thiền định khác nhau. Đức Phật biết rõ những quan điểm này nhưng không chấp trước vào bất kỳ tri kiến nào. Vì không chấp trước nên nội tâm Ngài tịch tịnh. Nhờ đó, Ngài biết rõ sự huân tập, sự diệt trừ của cảm thọ, những vị ngọt, những nguy hiểm và sự xa lìa khỏi chúng. Do đó, Đức Như Lai được hoàn toàn giải phóng, không còn tập khí sinh tử.

READ MORE >>  Bí Quyết Khởi Đầu Ngày Mới An Lạc Theo Triết Lý Phật Giáo

Kinh Phương Đẳng Bát Nhã phân tích Niết Bàn thành tám pháp vị tính chất: (1) Thường trụ, thông suốt ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai; (2) Tịch diệt, vắng lặng hoàn toàn, vĩnh viễn chấm dứt lưu chuyển; (3) Không già, không đổi, không thay, không thêm, chẳng bớt; (4) Không chết, vốn không sinh nên cũng không chết; (5) Thanh tịnh, an nhiên, trong sạch hết mọi ô nhiễm; (6) Hư không, thông suốt, rỗng rang, vượt mọi chướng ngại; (7) Bất động, im lìm tuyệt đối, hoàn toàn không dao động; (8) Khoái lạc, không bị sinh tử, khổ đau bức bách, đầy đủ niệm an vui, thường tịch diệt.

Trong kinh U Đà Na, Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, trạng thái này tức Niết Bàn, không có đất, nước, lửa, gió, không có Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ, không có đời này, không có đời sau. Do vậy ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có sinh, không có diệt, không chuyển vận và không sở duyên. Đó là sự đoạn tận khổ đau.” Ngài cũng dạy: “Cái gì có nương tựa thì có dao động, cái gì không nương tựa thì không dao động. Không dao động thì được khinh an. Được khinh an thì không chuyển dịch. Không chuyển dịch thì không có đến và đi. Không có đến và đi thì không có sinh diệt. Vì không sinh diệt nên không có đời này và đời sau. Đó là sự tự đoạn tận khổ đau.”

Thiền sư Thích Nhất Hạnh giảng rằng: “Sinh là ý niệm từ không mà trở thành có, và diệt là ý niệm từ có mà trở thành không. Cái không tới cũng không đi, không được cũng không mất, không đoạn cũng không thưởng, không sinh cũng không diệt. Cái đó gọi là Niết Bàn.” Vì vậy, nói Niết Bàn có hay không có đều không đúng, vì những ý niệm này không áp dụng được cho Niết Bàn. Nếu đem ý niệm có hay không để tìm Niết Bàn thì không bao giờ tìm thấy.

Trong kinh Pháp Hoa, có ý niệm tích môn và bản môn. Tích môn là phương diện sóng, ta thấy có sinh diệt, có còn có mất. Bản môn là bình diện nước, những ý niệm như sinh diệt, có không không còn nữa. Ví như một đợt sóng đang đau khổ lo lắng, khi nhận ra mình là nước thì sẽ không còn khổ đau nữa. Niết Bàn giống như nước, hữu thể và vô thể mà ta đang nói tới giống như sóng và nước. Sự thật, sóng không cần đi tìm nước vì bản chất của nó đã là nước rồi. Chúng ta cũng vậy, Niết Bàn là tự tánh của ta, bất sinh bất diệt, vô khứ vô lai. Ta đang nằm ngay trong Niết Bàn.

READ MORE >>  10 Lời Khuyên Vượt Qua Nghịch Cảnh Từ Thuật Cổ Nhân

Đặt vấn đề Niết Bàn có hay không có, đi tìm để đạt được là sai lầm. Đó là quan niệm ngây thơ như sóng đi tìm nước. Kinh nói: “Chứng cái vô chứng, đắc cái vô đắc,” là đạt tới cái không cần đạt, chứng cái không cần chứng vì ta chính là cái đó. Giống như trong kính vạn hoa, các hình tướng đẹp đẽ chỉ là sự biểu hiện của những mảnh giấy màu bên trong. Nếu biết tất cả là do bản môn mà biểu hiện, thì sự sinh diệt của tích môn không còn làm ta dao động.

Một đám mây đi tìm nước thì thật mệt mỏi, vì nó vốn đã là nước. Bản chất của mây là nước. Khi gặp lạnh, mây thành tuyết, vẫn là nước. Khi thành mưa hay nước đá cũng vậy. Đây là những ví dụ để chúng ta hiểu chứ không phải để chúng ta bị kẹt vào đó. Đức Thế Tôn dùng rất nhiều ví dụ, người thông minh sẽ hiểu, còn người không thông minh sẽ bị kẹt vào ví dụ. Khi đám mây chứng nghiệm mình là nước thì hết lo sợ. Con người có lo lắng, sợ hãi, kỳ thị là do không ý thức được mình là Niết Bàn. Nếu tiếp xúc được với thực tại của mình, tức là Niết Bàn (không sinh, không diệt, không tới, không đi), thì tất cả những lo sợ, sầu đau, ganh tỵ sẽ biến mất.

Bậc giác ngộ đã thức tỉnh, thấy được nền tảng của mình là Niết Bàn, do đó lên cũng vui mà xuống cũng vui. Một bậc đạt đạo được diễn tả như một con người tự do, tự do đối với những ý niệm như có không, còn mất. Các học giả ngày nay dịch chữ “Nirvana” là freedom (tự do), không còn là sự dập tắt những ý niệm như xưa nữa. Khi những khái niệm đó không còn làm ta đau khổ thì ta có tự do, tức là có Niết Bàn. Niết Bàn có ngay bây giờ, gọi là hiện pháp Niết Bàn.

Nếu theo lối này, thì người Cơ Đốc giáo có thể nói ta là Thượng Đế, Thượng Đế là ta. Thượng Đế là nền tảng bất sinh bất diệt của ta, không cần đi tìm. Chỉ có những đợt sóng nào biết mình là nước mới có thể chơi đùa nhơn nhơ được. Chỉ có những con người nào đạt tới Niết Bàn mới có thể mỉm cười khi thở hơi cuối cùng, còn những người khác sẽ bị lo lắng và sợ hãi xâm chiếm. Cái đẹp, cái hay nhất của người tu là chứng nhận được Niết Bàn, không phải ở đâu xa xôi mà nằm trong từng tế bào cơ thể ta.

Ví như một người đi tìm không gian, chạy khắp nơi mà không biết mình đang ở trong không gian. Chúng ta cũng vậy, ta đang đi tìm Niết Bàn, nhưng thật ra ta đang ở trong Niết Bàn, gọi là hiện pháp Niết Bàn. Chỉ có tỉnh ra mới thấy được. Vì vậy, đạo Phật gọi là đạo tỉnh thức. Quán chiếu sâu sắc vào cuộc sống thì tự nhiên tiếp xúc được ngay. Một nhà khoa học chưa từng nghiên cứu Phật học cũng có thể nói: “Không có gì sinh, không có gì diệt.”

READ MORE >>  Làm Chủ Bình Minh - Sống Đời Xuất Chúng: Hành Trình Khai Phá Tiềm Năng Vĩ Đại

Vậy điều gì dẫn chúng ta đi trong trầm luân sinh tử, và điều gì dẫn ta tới Niết Bàn giải thoát? Kinh Lăng Nghiêm nói, cội gốc của sinh tử là Sáu Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), và cội gốc của Bồ Đề Niết Bàn cũng là Sáu Căn. Chúng ta sử dụng Sáu Căn như thế nào sẽ quyết định việc ta chìm trong trầm luân hay giải thoát. Ví như mắt đuổi theo sắc, tai nghe tiếng, lưỡi nếm vị, nếu chúng ta dính mắc vào chúng thì sẽ bị chúng dẫn đi. Thay vì ăn để sống, chúng ta lại ăn để phiền não.

Người biết tu sống vừa phải, không lệ thuộc vào những thứ đó thì sẽ được an nhàn. Thân này dù xấu đẹp gì cũng phải chết, vậy chẳng lẽ ta thỏa mãn để rồi chết sao? Thân này không thật, hạnh phúc cũng không thật. Chúng ta lầm tưởng là thật nên phải chịu trôi lăn trong sinh tử. Người biết tu thì Sáu Căn đối với Sáu Trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) không dính không nhiễm, đó là cội gốc Bồ Đề Niết Bàn.

Khi Sáu Căn đối với Sáu Trần có dính có nhiễm thì ta sẽ đi trong sinh tử. Ví như người thích uống rượu, ban đầu uống chơi, sau thành nghiện, và bị rượu dẫn đi. Nếu không tạo thì đâu có mất tự do. Đó là nhân của giải thoát. Bị các trần dẫn đi là gốc của trầm luân. Chúng ta nên tự kiểm lại mình, xem ta đang chuẩn bị đi lên hay đi xuống. Nếu bị sở thích lôi kéo thì biết mình đang bị lôi xuống, nếu không bị dính mắc thì biết mình đang đi lên.

Sự tu của mình không phải đi hỏi người này người kia. Ai cũng có căn tu, vì Phật nói ai cũng có tánh Phật. Tu là loại trừ điều dữ, nuôi dưỡng điều lành. Đừng coi ngày coi tháng để xem mình có tu được hay không. Sáu Căn là cội gốc của Bồ Đề Niết Bàn và cũng là cội gốc của trầm luân. Đừng để Sáu Căn nhiễm dính với Sáu Trần thì sẽ được giải thoát.

Người không ăn chay, không tụng kinh mà thấy sắc đẹp không tham, nghe tiếng hay không nhiễm, khen không mừng chê không giận là người đó có tu. Còn người ăn chay trường, tụng kinh giỏi mà thấy sắc nghe tiếng cũng dính cũng nhiễm thì chưa biết tu. Tu là khéo gỡ, đừng cột trói, đừng dính mắc.

Cảm ơn các bạn đã theo dõi kênh Những lời dạy cổ xưa. Hẹn gặp lại các bạn trong những video tiếp theo.

Leave a Reply