Chào mừng quý vị đến với chuyên mục “Những lời dạy cổ xưa”, nơi chúng ta cùng nhau khám phá những triết lý sâu sắc và bài học vượt thời gian từ các kinh điển Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về một khái niệm cốt lõi trong Phật giáo: vòng luân hồi, và mục đích thực sự của nó theo lời dạy của Đức Phật. Vòng luân hồi không chỉ là một chuỗi sinh tử bất tận mà còn là một cơ hội để chúng ta nhận thức rõ hơn về bản chất của cuộc sống và con đường giải thoát khỏi khổ đau.
Trong video hôm nay của kênh “Những lời dạy cổ xưa”, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về một khái niệm cốt lõi trong Phật giáo: vòng luân hồi, và mục đích thực sự của nó theo lời dạy của Đức Phật. Vòng luân hồi không chỉ là một chuỗi sinh tử bất tận mà còn là một cơ hội để chúng ta nhận thức rõ hơn về bản chất của cuộc sống và con đường giải thoát khỏi khổ đau.
2500 năm trước, Đức Thế Tôn, khi còn ngự tại thành Vương Xá, trong vườn Trúc Lâm, ngài Mục Kiền Liên, một trong những đệ tử thân cận nhất của Đức Phật, với thần thông đệ nhất của mình, đã thấy rõ những cảnh khổ đau ở địa ngục và ngạ quỷ. Thậm chí, các vị thần ở cõi trời, khi hết tuổi thọ, cũng bị đọa xuống ba đường ác. Đức Phật thường kể cho các tỳ kheo nghe những gì mình chứng kiến và dạy họ cách tu hành để thoát khỏi những khổ ải đó. Ngài đã đưa nhiều người đến đạo quả, thoát khỏi luân hồi.
Đức Phật và các đệ tử
Đức Thế Tôn nhận thấy rằng Mục Kiền Liên không thể ở khắp mọi nơi để nhắc nhở các Phật tử. Vì vậy, ngài dạy rằng ở trước mỗi cửa chùa nên vẽ một bánh xe luân hồi và cử một tỳ kheo đủ khả năng để giải thích về quy luật vãng lai, nhắc nhở mọi người chăm chỉ tu tập để thoát khổ. Đây chính là cách mà vòng tròn luân hồi ra đời, trở thành một biểu tượng quen thuộc trong Phật giáo.
Vậy, lục đạo luân hồi là gì? Lục đạo là nơi ở của chúng sinh trong vòng luân hồi, bao gồm cõi trời, cõi người, cõi A Tu La, cõi súc sinh, cõi ngạ quỷ và cõi địa ngục. Phật giáo cho rằng tất cả chúng sinh chưa được giải thoát, dưới sự thúc đẩy của nghiệp lực, đều phải luân chuyển sinh tử trong lục đạo. Đã ở trong luân hồi, tức là ở trong biển khổ vô biên.
Cõi trời, dù được xem là nơi sung sướng nhất, không phải lo lắng về cơm áo, tuổi thọ rất dài, nhưng cũng có nhiều phiền não. Khi lâm chung, họ sẽ gặp năm tướng suy của người trời, và những khoái lạc mà họ hưởng thụ sẽ tan biến. Cõi người cũng có nhiều khoái lạc, nhưng cũng phải đối mặt với 8 loại phiền não cơ bản: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, cầu bất đắc, và ngũ ấm thịnh. Cõi A Tu La tuy có phúc báo lớn như người trời, nhưng tâm sân hận quá mạnh, khiến họ luôn bị ngọn lửa sân hận thiêu đốt, không ngày nào được an nhiên.
Bánh xe luân hồi
Chúng sinh ở cõi súc sinh thường ngu si, vô minh, phải trải qua nỗi khổ của cá lớn nuốt cá bé. Dù có phúc báo lớn một chút, họ vẫn không thể thoát khỏi nỗi khổ bị con người sai khiến. Nỗi thống khổ lớn nhất của ngạ quỷ là đói khát, hàng ngày không ngừng tìm kiếm thức ăn nhưng lại khó có thể hấp thụ được. Cõi địa ngục là nơi đau khổ nhất, với những hình phạt khủng khiếp như lên núi đao, xuống biển lửa, nhảy vào vạc dầu sôi. Tuổi thọ của chúng sinh địa ngục cực kỳ dài, lên đến hàng ngàn vạn năm, khổ nạn dường như không có hồi kết.
Trung tâm của bánh xe luân hồi vẽ một con gà trống (tượng trưng cho lòng tham ái), một con rắn (tượng trưng cho lòng sân hận) và một con heo (tượng trưng cho sự ngu si). Ba con vật này tượng trưng cho ba độc, luôn hoạt động trong tâm của kẻ phàm phu. Chúng ta nuôi ba con vật này ngày đêm trong tâm, và chúng kích thích chúng ta tạo nghiệp để cảm quả báo sầu đau, luân hồi. Tuy tham, sân, si là gốc luân hồi, là tạo hóa an bài vũ trụ, nhưng chỉ cần tỉnh giác, chúng sẽ tan ngay.
Câu chuyện Lương Vũ Đế và thiền sư Chí Công cho chúng ta thấy rằng ranh giới giữa thiên giới và địa ngục rất mong manh. Nếu ta sinh lòng sân hận, lập tức sẽ bị đẩy xuống địa ngục. Lục đạo cũng có thể xem là 6 loại trạng thái tình cảm khác nhau: sân hận đối ứng với địa ngục, dục vọng đối ứng với quỷ đói, vô tri đối với súc sinh, ngũ giới đối ứng với cõi người, hiếu chiến đối ứng với cõi A Tu La, và thập thiện đối ứng với cõi trời. Tình cảm của con người luôn biến đổi, thiện ác khởi phục bất định, từ đó dẫn đến sự luân hồi không ngừng nghỉ. Vì vậy, muốn vượt qua khổ đau luân hồi, chúng ta phải bắt đầu từ việc huấn luyện tâm tính và điều tiết tình cảm.
Vậy, Đức Thế Tôn đã thoát khỏi luân hồi như thế nào? Ngay cả bản thân Đức Phật cũng là một con người bình thường trước khi đắc đạo. Khi còn là thái tử, ngài đi dạo khắp bốn cửa thành và thấy cảnh sinh, lão, bệnh, tử. Ngài có những thắc mắc trong lòng: con người từ đâu đến, sau khi chết sẽ đi về đâu, và làm sao để ra khỏi vòng sinh tử.
Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia
Chính vì những thắc mắc đó, thái tử không yên tâm sống trong cảnh vương giả nên quyết chí tu hành. Ban đầu, ngài tìm đến những vị thầy nổi tiếng thời đó để học đạo. Các vị thầy dạy ngài từ sơ thiền đến tứ thiền, rồi đến các quả vị không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, và phi phi tưởng xứ. Tuy nhiên, ngài vẫn chưa giải quyết được những vấn đề mình thắc mắc. Ngài tiếp tục tìm cách tu khác. Hồi xưa, ở Ấn Độ, nhiều người cho rằng tu khổ hạnh đến chỗ tột cùng sẽ ngộ đạo. Ngài cũng tu khổ hạnh hết 6 năm, nhưng vẫn không giải quyết được ba vấn đề trên. Cuối cùng, ngài đến cội Bồ Đề, trải cỏ ngồi kiết già và thề nguyện: “Ta ngồi dưới cội này, nếu không thành đạo, thà thân tan thịt nát, quyết không rời khỏi cội cây này”.
Với ý chí quyết liệt như vậy, suốt 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ Đề, đến đêm thứ 49, ngài giác ngộ thành Phật, giải quyết triệt để ba vấn đề trọng đại đã thắc mắc bấy lâu. Trước tiên, ngài chứng được túc mạng minh, tức là sáng suốt thấu tỏ tột cùng cuộc đời của mình, giải đáp được câu hỏi thứ nhất: ta từ đầu đến đây. Ngài thấy rõ nhớ rõ từ vô số kiếp về trước của mình như việc mới xảy ra hôm qua. Tiếp đến, ngài chứng được thiên nhãn minh, con mắt sáng suốt thấy tột cùng những gì rất xa rất nhỏ. Ngài thấy tường tận hết, thấy chúng sinh chết đi sinh lại do nghiệp dẫn đi trong sáu đường. Đến canh năm, khi sao mai vừa mọc, ngài chứng được lậu tận minh. Lậu là dơi rớt, tận là hết, ngài thấy rõ nguyên nhân từ đâu chúng sinh có sinh và tử, và nguyên nhân để chấm dứt sinh tử, không còn rơi rớt trầm luân trong tam giới nữa. Thế là ngài tuyên bố giác ngộ viên mãn, thành Phật.
Vì vậy, chúng ta biết rằng Đức Phật nói thuyết luân hồi không phải do suy luận hay tưởng tượng, mà là do trí tuệ sáng suốt khi ngài an định, nhớ được tất cả mọi việc trong vô số kiếp về trước, và chứng được thiên nhãn minh, thấy chúng sinh luân hồi trong lục đạo là do nghiệp dẫn. Nghiệp dẫn mình đi trong 6 đường, trong đó loài súc sinh và ngạ quỷ ở lẫn với chúng ta, nhưng ta chỉ thấy được súc sinh mà không thấy được ngạ quỷ. Địa ngục không phải là một nơi đào sâu dưới đất, mà là nơi những chúng sinh có nghiệp ác phải chịu những hình phạt đau khổ.
Trở lại đường lành, cõi người là đường lành thấp nhất. Chúng ta đang ở trong đường lành, nhưng nếu không khéo tu, sẽ tụt xuống đường dữ. Để giữ được trong đường lành, chúng ta phải cố gắng tu tập để vươn lên, chứ không nên tự mãn. Vì khi hưởng hết phước lành, ta sẽ bị đọa vào các đường giữa. Đức Phật, với trí tuệ của mình, đã thấy tường tận các điều như đã nói, thậm chí còn thấy cả vi trùng. Ngài cũng thấy không gian bao la với hằng hà sa số thế giới. Cái thấy và biết của Phật là vô cùng to lớn.
Tất cả chúng ta hiện giờ có mặt ở đây không phải chỉ một lần, mà là vô số lần rồi. Con người bỏ thân này chưa phải là hết, mà còn lang thang không biết đến bao giờ. Vì vậy, nhà Phật thường dùng từ “lang thang” trong kiếp luân hồi, cứ đi mãi không biết dừng ở nơi đâu. Đức Phật thấy được những nẻo đường của chúng sinh đến và đi, nên ngài mới nói thuyết luân hồi. Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là lăn tròn. Luân hồi đi đầu? Không ngoài ba đường ác và ba đường lành, cứ lên xuống quay tròn như vậy.
Nếu người làm điều tốt khi chết đi sẽ đi các đường trên, rồi hết phước thì tuột xuống trở lại. Còn kẻ làm xấu thì đọa vào các đường dưới, đền trả hết nghiệp mới được ngồi lên. Cứ lên xuống, lên xuống không ra khỏi vòng lục đạo, nên gọi là bánh xe luân hồi. Khi chúng ta đã biết thuyết luân hồi trong ba đường lành và ba đường dữ rồi, bây giờ phải làm sao? Chúng ta phải chọn ba đường lành mà đi. Tối thiểu cũng phải đi lại đường cũ của mình là làm người, ai khá hơn thì vươn lên cõi trời. Muốn trở lại cõi người, Phật dạy phải thọ tam quy, giữ năm giới. Muốn lên nữa thì tu thập thiện, tức 10 điều lành, sẽ được lên cõi trời. Còn hạng trung là A Tu La. A Tu La làm lành nhiều, siêng năng bố thí, tu phước, nhưng động tới liền sân. Đây là thần chứ không phải trời. Vì thế, các bạn trong khi bố thí, làm phước, nhớ tránh đường sân.
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài. Mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội. Nếu làm trọn 10 điều ác thì đi thẳng xuống địa ngục không nghi ngờ. Khá khá hơn, không tới 10 điều, nhưng nặng về tham thì sinh vào loài quỷ đói, ngạ quỷ, sống lang thang trong cõi thế gian, tuổi thọ rất lâu, phải chịu đói khát ghê gớm. Còn nếu làm chừng 5 điều ác thì sẽ sinh vào loài súc sinh. Súc sinh nặng về si, nên không biết phân biệt gì hết, không có tư cách như con người. Đó là ý nghĩa của luân hồi.
Luân hồi trong 6 đường, nhưng ai bắt mình đi? Chính là nghiệp của bạn. Nghiệp do ai tạo? Không ai có quyền áp đặt, mà tự ta quyết định, tự ta lựa chọn. Không phải ta có tội Phật đày xuống địa ngục, hay có phước Phật đưa lên cõi trời. Như hiện giờ chúng ta có mặt trên thế gian này, có người khá giả, có kẻ nghèo nàn cơ cực, là do ai? Đổ thừa trời được không? Sự thực tại, người không có phước nên làm gì cũng thất bại, nên nghèo. Con người có phước tính đâu, chúng đó nên giàu. Đó là do phước nghiệp của riêng mỗi người tạo ra, chứ không phải ai đem đến cho mình. Vì chúng ta không biết điều đó, nên đổ thừa người này người kia, mà không nhận ra nguyên do chính mình.
Nghiệp và luân hồi
Hiện tại của chúng ta có hai việc quan trọng. Thứ nhất là trả nợ và hưởng phước của quá khứ. Nhiều người sinh ra là con ông lớn hoặc nhà giàu, đó là hưởng phước. Nhiều người sinh ra đã mồ côi cha mẹ, nghèo khổ, bần cùng, hung dữ, độc ác, đó là trả nợ. Thứ hai là chuẩn bị cho đời sau. Ta cần chuyển nghiệp ngay đời hiện tại. Cho nên, đời hiện tại rất quan trọng, cố gắng làm sao tạo duyên tốt để hiện đời an vui phần nào, và mai sau được tốt đẹp hơn. Người hiểu được thuyết luân hồi của Phật dạy thì cuộc sống nội tâm vững vàng, nghèo không trách, giàu không tự cao. Bởi vì biết bây giờ ta hưởng mà không dám làm tốt nữa thì mai kia tuột xuống sẽ khổ. Hoặc hiện giờ mình bị những đày đọa thì vui vẻ chấp nhận, sửa lại, đừng để tuột xuống nữa mà phải nâng lên. Như vậy là biết tu, biết rõ lý luân hồi, tự nhiên ta tạo ra cho mình trên con đường đi lên, không có tâm oán hờn, thù ghét ai hết. Thế gian thường có bệnh là mình nghèo mà ai giàu thì thấy ghét, mình học dở thấy người ta học giỏi thì ganh tị, đó là tật xấu tự mình chuốc nghiệp vào thân.
Trong kinh Phật nói, từ khi phát tâm tu cho tới thành Phật, trải qua vô số kiếp làm tất cả công việc công đức mới thành tựu đạo quả vô thượng bồ đề. Như vậy, sự tích lũy rõ ràng, không mất. Tích lũy tốt thì quả đời tiếp tốt, tích lũy xấu thì quả đời tiếp xấu. Người thế gian không biết, nên oán trách cha mẹ không có phước nên sinh mình ra khổ, hoặc cha mẹ không có tài nên mình bây giờ phải thua suốt người ta, mà không biết chính mình thọ nhận quả báo từ đời trước đã tạo ra, nên mới sinh vào gia đình tương ứng như thế. Cha mẹ chỉ là phần thôi, gốc là bản thân mình.
Như vậy, thuyết luân hồi nói lên lẽ thực của kiếp người. Đức Phật đã thấy, đã nhớ rõ ràng nên nói ra cho chúng ta biết, chứ không phải do ngài tự tưởng tượng. Ngày nay mình nghe hơi khó tin, bởi vì chúng ta nhìn nông cạn quá, nên không tìm được. Nhà Phật nói nghiệp từ thân, miệng, ý mà sinh. Nhưng thực ra ý chủ động tạo nghiệp, miệng nói tốt xấu cũng tùy tự ý, thân làm tốt xấu cũng tự ý. Ý là nói chung cho tất cả những phần biệt thường, ghép buồn, giận, hờn, thua, phải, quấy, đều là ý nghĩ của mình.
Chúng ta sống chạy theo những ý nghĩ đó, tức là chạy theo nghiệp. Bởi vì có ý nghĩ xấu, nên mình mới nói bậy, làm bậy. Do ý nghĩ tốt, nên ta mới nói lành, làm lành. Khi thân này hoại thì nghiệp đó không hoại, vì nó đâu có tướng mạo mà hoại, nên sẽ theo ta thọ sinh ở đời sau. Hành động đó gọi là màng nghiệp đi trong luân hồi sinh tử. Vậy muốn chấm dứt nghiệp, phải điều phục ý này. Thế nên, muốn biết còn luân hồi hay không, chúng ta cứ nghiệm trong tâm niệm của mình sẽ rõ. Cha mẹ sinh thân được, mà không thể sinh tâm niệm của mình. Có tâm niệm rất lành, có tâm niệm rất dữ. Như vậy, tâm niệm từ đâu ra? Chính là do sự tích lũy của đời trước, không nghi ngờ gì hết. Nên nhiều người ngạc nhiên tại sao người đó còn nhỏ mà không chịu ăn mặn, còn có kẻ cha mẹ khuyên ăn chay thì ăn không được một ngày cũng không ăn nổi. Đó là do tích lũy từ trước, bây giờ gặp lại thấy quen, thấy thích, chứ không phải là bỗng dưng mà có.
Tích lũy tức là những gì đời trước mình đã từng làm, từng huân tập, đời này trở lại, những thứ tích lũy đó không mất đi. Vì vậy, trong kiếp luân hồi, chúng ta theo nghiệp mình đã tích lũy, chất chứa mà hiện ra thành tâm hồn đặc biệt của mỗi người. Nên nói đến luân hồi, chúng ta đừng suy ngẫm gì hết, cứ nhìn lại nội tâm mình thì biết ngay. Tại sao người đó chưa quen thuộc gì hết mà mình đã thấy rất dễ thương, hoặc có kẻ kia cũng chẳng quen thuộc gì hết mà mình đã thấy ghét? Thật ra, do nghiệp tích lũy từ quá khứ chiêu cảm nên.
Tu tập để giải thoát
Trên đời này, ai mà không có những người thân, những kẻ thù? Có thân có thù, gặp lại nhau là khổ. Người thân thì mình thương, người thù thì mình ghét. Nhiều người nói tại sao anh chị có duyên quá, xin cái gì cũng được, còn tôi vô duyên xin cái gì cũng không ai cho? Tại mình hay tại trời xui khiến? Chẳng qua hồi trước mình hắt hủi thiên hạ quá, bây giờ tới phiên người ta hắt hủi lại mình. Bình đẳng thôi. Cụ thể như mấy chú hay đi bắt chó, dù không làm gì hết, chỉ đi chơi thôi mà mấy con chó nó ghét, nó sủa ghê gớm. Như vậy, quyết định tạo nghiệp lành, nghiệp dữ không đợi đời sau mới trả quả, ngay hiện tại cũng ứng hiện quả báo phần nào, đó là một lẽ thực.
Đức Phật do tu mà chứng biết hết nên nói ra như vậy. Chúng ta không thấy là vì chưa đủ trí tuệ. Bao giờ mình tu được như Phật cũng sẽ biết sẽ thấy như ngài. Trong kinh kể lại, tôn giả Mục Kiền Liên khi chứng A La Hán rồi, một hôm khi ngài đi trên đường, thấy loài quỷ đầu rất to, bụng lại nhỏ xíu, thân thể ghê gớm lắm. Ngài về thuật lại với Phật, Phật nói: “Ta cũng thường thấy chúng, nhưng nói không ai biết nên ta không nói”. Vậy ai tu tới đó, chứng tới đó, đều thấy như nhau, chứ không phải chỉ riêng Phật thôi.
Nhiều người bảo những gì mắt thấy tai nghe tôi mới tin. Nhưng mắt mình chắc gì thấy được tất cả mọi cảnh giới? Cái thô thì thấy, cái tế không thấy. Như vi trùng, nếu không nhờ kính hiển vi thì làm sao con người thấy được? Đem con mắt phàm phu so sánh với mắt thành nhân thì thật quả là thô thiển. Có những luồng điện nó đi từ trên trời, mình thấy không? Không. Mà có không? Có đầy đủ. Cho nên chúng ta không nên tin vào con mắt còn rất hạn chế của mình. Có những cái hiện thực mà mình chưa thấy được, chưa hiểu được, thế nên chớ vội cho cái thấy nghe của mình là đúng. Mây nghe đằng kia trở lại thuật lại đã trật lất rồi. Rõ ràng cái thấy và nghe của kẻ phàm phu không có giá trị thực.
Vậy, nhờ túc mạng minh và thiên nhãn minh, Đức Phật đã nói cho chúng ta biết thuyết luân hồi. Nghe thế rồi, tự ta kiểm điểm lại mình xem điều đó có phải là lẽ thực không. Biết được lẽ thực rồi, mình phải làm sao? Tha hồ chạy đi đâu thì chạy, hãy phải chọn đường mà đi. Phật dạy chúng ta phải chọn con đường đi sao cho hiện đời được an ổn, và mai kia cũng an ổn. Đó là tu.
Cảm ơn các bạn đã xem hết video của chuyên mục “Những lời dạy cổ xưa”. Hẹn gặp lại ở những video tiếp theo!