Hành Trình Khám Phá Nội Tâm: Review Sách “Hành Tinh Của Một Kẻ Nghĩ Nhiều” (Phần 1)

Cuốn sách “Hành Tinh Của Một Kẻ Nghĩ Nhiều” của tác giả Nguyễn Đoàn Minh Thư mở ra một hành trình sâu sắc vào thế giới nội tâm, đặc biệt là phần 1 với chủ đề “Cái Tôi Không Hoàn Hảo”. Tác phẩm này không chỉ đơn thuần là một cuốn sách, mà còn là người bạn đồng hành, thấu hiểu những tâm tư, trăn trở của những người “nghĩ nhiều”, những người đôi khi cảm thấy cô độc và lạc lõng giữa cuộc đời. Bài viết này sẽ review chi tiết về phần 1 của cuốn sách, đi sâu vào những khía cạnh quan trọng mà tác giả đã đề cập.

Cô Độc: Không Phải Là Cảm Xúc Tiêu Cực

Tác giả đặt vấn đề về sự cô độc, một cảm xúc mà nhiều người thường tránh né. Xã hội hiện đại, với sự phát triển của mạng xã hội, dường như lý tưởng hóa việc giao tiếp và xây dựng các mối quan hệ. Những người không giỏi giao tiếp, hướng nội thường bị gắn mác “yếu kém” và cần phải “cải thiện”. Tuy nhiên, “Hành Tinh Của Một Kẻ Nghĩ Nhiều” lại đưa ra một góc nhìn khác.

Tác giả khẳng định rằng việc chấp nhận bản thân là một người cô độc không phải là điều gì đáng xấu hổ. Tính cách hướng nội hay hướng ngoại chỉ là một khía cạnh của con người, được thể hiện rõ qua các bài trắc nghiệm tính cách như mô hình Big Five hay MBTI. Nghiên cứu cho thấy người hướng ngoại thường dễ thu hút người khác hơn trong lần gặp đầu tiên, trong khi người hướng nội lại thích sự tĩnh lặng.

Tuy nhiên, sự cô độc không đồng nghĩa với sự tiêu cực. Các nghiên cứu của Nguyên (2019) cho thấy những sinh viên chủ động chấp nhận sự cô độc và không cảm thấy mình thuộc về một cộng đồng nhất định lại có sức khỏe tinh thần tốt hơn, lòng tự trọng cao hơn và ít cảm thấy cô đơn hơn. Điều này cho thấy, việc ép bản thân hòa nhập khi không thực sự thoải mái có thể gây ra những hệ lụy tiêu cực.

Thỏa Hiệp Với Cô Độc và Cảm Giác Không Thuộc Về

Tác giả chia sẻ những trải nghiệm cá nhân về sự cô độc, từ những năm tháng xa nhà không có gia đình bạn bè, đến những khoảnh khắc một mình trong căn phòng ký túc xá. Sự cô độc không mang lại nỗi buồn, nhưng lại tạo ra cảm giác “ngoài lề” xã hội. Điều quan trọng là nhận ra rằng sự cô độc chỉ tiêu cực khi ta coi thường nó, trốn tránh nó.

READ MORE >>  Kết Thúc Vũ Trụ: Hành Trình Đến Vũ Trụ Song Song?

Tác giả cũng đề cập đến sự mâu thuẫn của cảm giác cô độc, khi ta có thể cảm nhận nó ngay cả khi đang giao tiếp và xây dựng các mối quan hệ. Đôi khi, việc tham gia các hội nhóm, câu lạc bộ lại khiến người hướng nội cảm thấy mệt mỏi và lo âu. Tác giả đã từng cố gắng hòa nhập, nhưng nhận ra rằng không có lý do gì để ép bản thân trải qua những cảm xúc tiêu cực khi mình thoải mái hơn với sự trầm lặng.

Nghiên cứu của Nguyên (2018) cũng chỉ ra rằng, việc ở một mình có thể giúp giảm những cảm xúc cao trào và gia tăng những cảm xúc có mức năng lượng thấp như điềm tĩnh và bình yên. Từ đó, cô độc cho ta cơ hội để thanh thản và điềm đạm hơn. Chấp nhận sự cô độc không chỉ giúp người hướng nội có thêm thời gian khám phá tâm hồn, mà còn giúp họ chấp nhận bản thân khi không được nhìn nhận là “khôn ngầu” vì ít bạn bè.

Chán Ghét Bản Thân và Sự Thiếu Lòng Trắc Ẩn

Một phần quan trọng của cuốn sách là việc tác giả đề cập đến sự chán ghét bản thân, một trải nghiệm mà nhiều người, đặc biệt là những người hay suy nghĩ, từng trải qua. Tác giả chia sẻ về những hành vi tàn nhẫn như việc liên tục nhai lại những lỗi lầm trong quá khứ, tự dằn vặt và tra tấn tinh thần. Tất cả đều là những chuyện không thay đổi được, nhưng lại khiến ta cảm thấy không đáng được tha thứ.

Tác giả cho rằng nguyên nhân của sự chán ghét bản thân bắt nguồn từ việc không biết mình là ai, không có giá trị sống để định nghĩa bản thân. Hệ quả của nó là việc tự tước đoạt lòng trắc ẩn với chính mình. Nf (2003) định nghĩa lòng trắc ẩn là khi bạn đối xử với chính mình bằng sự tử tế thay vì sự chỉ trích.

Khác với lòng tự trọng, vốn được xây dựng dựa trên thành tựu, lòng trắc ẩn là một loại xúc cảm vô điều kiện. Nghiên cứu của N (2023) cũng chỉ ra rằng những người có lòng trắc ẩn cao thường cảm thấy ít lo âu và trầm cảm hơn. Tác giả cho rằng ghét bản thân là khi ta tự tước đoạt lòng trắc ẩn với bản thân.

Nỗi Sợ Lòng Trắc Ẩn và Những Tổn Thương Tuổi Thơ

Tác giả cũng đề cập đến nỗi sợ lòng trắc ẩn, một khái niệm liên quan mật thiết đến sự chán ghét bản thân. Nỗi sợ này có thể xuất phát từ việc ta nhìn nhận lòng tốt là sự yếu đuối hoặc do những tổn thương trong tuổi thơ. Nghiên cứu của Gilbert và cộng sự (2014) cho thấy những đứa trẻ bị bạo hành hay thiếu sự quan tâm thường lớn lên với nỗi sợ về lòng tốt và sự gắn kết.

READ MORE >>  Nghệ Thuật Chữa Lành: Khám Phá Sức Mạnh Tiềm Ẩn Bên Trong

Nghiên cứu của Smith (2019) cũng chỉ ra rằng những đứa trẻ thiếu thốn tình thương sẽ có lòng trắc ẩn thấp với bản thân khi trưởng thành. Cảm giác yếu kém và không bao giờ là đủ cũng là hệ quả của việc không được công nhận từ cha mẹ. Gilbert và cộng sự (2014) cũng chỉ ra rằng nỗi sợ đón nhận lòng trắc ẩn có liên hệ mật thiết với nỗi sợ yêu thương bản thân.

Tác giả trích dẫn nghiên cứu của Austin (2016) về sự chán ghét bản thân, cho rằng đây là biểu hiện của nỗi hổ thẹn hiện sinh, một phần của quá trình sống và tự vấn về sự tồn tại. Điều quan trọng là chúng ta có thể chấp nhận và làm quen với những suy nghĩ phức tạp này, thay vì chối bỏ nó. Tác giả khẳng định, ghét bản thân là một phần của quá trình học cách yêu bản thân.

Thoát Khỏi Vòng Luẩn Quẩn Của Sự So Sánh

Cuốn sách cũng đề cập đến vấn đề “thích với”, hay là việc luôn cảm thấy không bao giờ là đủ. Tác giả nhận thấy bản thân có thói quen thích với từ khi còn nhỏ, khi luôn cố gắng để đạt được thành tích cao hơn năng lực thật sự. Điều này dẫn đến việc tự tạo áp lực, không ngừng ép bản thân phải nỗ lực để thành công.

Nghiên cứu của Kuri (1961) phân chia học sinh thành hai nhóm: “under achiever” (học kém hơn thực lực) và “over achiever” (học giỏi hơn thực lực). Tác giả cho rằng mình thuộc nhóm “over achiever”, những người luôn nỗ lực và cố gắng vượt quá khả năng. Tuy nhiên, xu hướng “thích với” lại đi kèm với các đặc tính như kiên trì, chăm chỉ, tham vọng và thói theo đuổi sự hoàn hảo, có thể dẫn đến nguy cơ trải nghiệm chứng rối loạn lo âu.

Tác giả cũng chia sẻ về việc không hài lòng về ngoại hình, một vấn đề mà nhiều người, đặc biệt là phụ nữ, phải đối mặt. Tác giả mô tả bản thân là “một con vịt xấu xí” với những trải nghiệm tiêu cực về ngoại hình trong những năm tháng cấp 3. Tác giả đã từng nhịn ăn để giảm cân, nhưng nhận ra rằng sự thay đổi về ngoại hình không mang lại hạnh phúc thật sự.

Nghiên cứu của Carry Be và Thomson (2004) chỉ ra rằng ba yếu tố lớn nhất ảnh hưởng đến nhận thức của chúng ta về ngoại hình là cha mẹ, bạn đồng lứa và truyền thông. Nghiên cứu của Jones và Crawford (2006) cho thấy con gái có tần suất nói chuyện về ngoại hình nhiều hơn con trai. Nghiên cứu của KN và cộng sự (2008) cho thấy ảnh hưởng từ việc nội hóa những tiêu chuẩn bất khả của truyền thông có tác động lớn đến sự hài lòng của con gái về cơ thể.

READ MORE >>  Luận Bàn về Tư Duy Xử Thế Kinh Điển Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa: Bài Học Vượt Khó

Nghiên cứu của John (2004) và Vinson (2000) cho thấy con trai thường bị bạn bè chọc ghẹo về ngoại hình nhiều hơn con gái. Nghiên cứu của Miller và Nixon (2011) cho thấy rằng con gái thường có nhiều bất mãn về ngoại hình hơn con trai. Nghiên cứu của B và cộng sự (2007) cho thấy ở phụ nữ, các yếu tố như lòng tự trọng, trầm cảm, bạn bè ăn kiêng và tiếp xúc với hình ảnh cơ thể lý tưởng đều có tác động rất lớn đến sự không hài lòng về ngoại hình.

Kết Luận: Yêu Bản Thân Vô Điều Kiện

“Hành Tinh Của Một Kẻ Nghĩ Nhiều” (Phần 1) không chỉ là cuốn sách review về những trải nghiệm cá nhân, mà còn là một tác phẩm mang đến những góc nhìn sâu sắc về sự cô độc, sự chán ghét bản thân, và hành trình học cách yêu thương chính mình. Tác giả không chỉ chia sẻ những khó khăn mà còn đưa ra những giải pháp hữu ích, giúp người đọc có thể chấp nhận bản thân, vượt qua những cảm xúc tiêu cực, và tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn. Đây là một cuốn sách đáng đọc cho những ai đang tìm kiếm sự thấu hiểu và đồng cảm trong hành trình khám phá bản thân.

Tài liệu tham khảo

  • Austin, J. (2016). The shame of being: A study of self-hatred in the depressed.
  • B, R. et al. (2007). The Role of Internalization and Social Comparison in the Development of Body Dissatisfaction.
  • Carry Be, & Thomson, J. (2004). The Thin Ideal and Body Image Dissatisfaction.
  • Cloninger, C.R., et al. (2012). The Personality of Underachievement and Overachievement.
  • Gilbert, P., et al. (2014). Fear of Compassion: Origins and Manifestations.
  • John, et al. (2004). Social experiences and body image.
  • Jones, D., & Crawford, M. (2006). The Experience of Body Image Conversations in Adolescent Girls.
  • KN, & Cộng Sự (2008). The role of media in internalization of unrealistic standards.
  • Kuri, P. (1961). A study of underachievement and overachievement in high school students.
  • Miller, J., & Nixon, K. (2011). Gender Differences in Body Dissatisfaction.
  • Monaco, M., & Espinoza, V. (2019). Self-efficacy, mindset and achievement in first-year college students.
  • Nf (2003). Self-Compassion: An Alternative Conceptualization of a Healthy Attitude Toward Oneself.
  • N (2023). The benefits of self-compassion.
  • Nguyên (2018). The Effect of Time Alone on Emotion.
  • Nguyên (2019). Loneliness and Social Integration: Effects on Mental Health.
  • Smith, N. (2019). Childhood experiences and self-compassion in adults.
  • Vinson, T. & MP, N. (2000). Body image conversations: A mixed method approach.

Leave a Reply